3 tháng 8, 2025

𝐓𝐞̂𝐧 𝐭𝐨̂𝐢 𝐥𝐚̀ 𝐭𝐞̂𝐧 𝐦𝐨̣̂𝐭 𝐜𝐚̂𝐲 𝐜𝐚̂̀𝐮

Tên tôi là Hiền Lương — tên một cây cầu bắc ngang sông Bến Hải, chia cắt đôi miền đất nước suốt mấy mươi năm khói lửa. Nhưng cũng là cây cầu đã chứng kiến những giọt nước mắt đoàn tụ, những bàn tay níu nhau sau bao mùa chia lìa. Và trên hết, đó còn là nhịp cầu nối giữa quá khứ và hiện tại trong chính gia đình tôi. 

Năm 1972, bố tôi còn rất trẻ. Vừa tốt nghiệp trường sĩ quan lục quân, ông kịp cưới mẹ tôi trước khi vào chiến trường, nhận nhiệm vụ đóng quân ở Quảng Trị — nơi hòn tên mũi đạn không biết lúc nào sẽ gọi tên mình. Đó cũng là năm chiến tranh ở miền Trung khốc liệt hơn bao giờ hết. 

Giữa chiến trường đỏ lửa, khi nghe tin mẹ tôi mang bầu, trong một lá thư gửi về cho mẹ, bố dặn: “Nếu sinh con gái đặt tên là Thủy Chung, sinh con trai đặt tên là Hiền Lương… để mai này con lớn, con hiểu bố mẹ gửi gắm điều gì trong cái tên ấy”. Khi đó bố không biết mình còn có cơ hội trở về để gọi tên đứa con sắp chào đời hay không. 

Những lá thư đi qua rừng bom, suối đạn mà về được đến tay mẹ, quý giá như phép màu. Rồi trong một trận trinh sát, bố bị thương. Hai đồng đội thân thiết không may hy sinh ngay bên cạnh. Bố được quân y chuyển về tuyến sau điều trị. Đơn vị mất thông tin tưởng bố không qua khỏi, đã gửi tin về quê. Trong lá thư đẫm nước mắt, các đồng đội dặn dò mẹ tôi: “Chị hãy thay anh nuôi cháu Hiền Lương lớn khôn”. 

Mẹ tôi khi ấy vừa sinh con vừa nhận công tác mới ở Trường Đảng tỉnh Nam Định. Tin dữ khiến mẹ suy sụp, cân nặng chỉ còn 35kg. Không biết vịn vào đâu để mẹ vượt qua những ngày tháng đen tối ấy.

Nhưng rồi, chiến tranh cũng có lúc buông tay. 

 May mắn, sau những tháng ngày dài điều trị, bố hồi phục tâm lý, sức khoẻ và trở về — vào đúng lúc tôi đã hơn hai tuổi, bập bẹ biết nói. Bà nội tôi khi còn sống thỉnh thoảng lại kể: “Hồi đó, mày nhất định không chịu gọi bố là bố. Chỉ gọi chú, rồi lại học theo chú út, líu lo gọi “anh Vinh”. Mỗi lần thấy bố mày đi làm ở huyện về, cứ tíu tít gọi: “Bà ơi, lấy gạo thổi cơm anh Vinh ăn!” làm cả nhà cười mãi. 

 Nhiều năm sau lớn lên, tôi mới hiểu tại sao bố lại đặt cho mình một cái tên đặc biệt như vậy. Không chỉ là tên một cây cầu, Hiền Lương còn là nỗi khắc khoải sum họp mà bố mẹ tôi gửi gắm vào đứa con đầu lòng. 

 Tôi đã đôi ba lần về thăm di tích cầu Hiền Lương, nơi con sông Bến Hải hiền hòa nay đã không còn vết chia cắt. Mỗi lần đứng trên cây cầu lịch sử, lặng ngắm lá cờ đỏ sao vàng tung bay, tôi lại thấy trong lòng nhiều xúc cảm. Vẫn nghe thầm thì trong gió là câu chuyện của một chàng sĩ quan trẻ năm xưa và sự may mắn của số phận để bố được trở về. 

 Lần này, tôi trở lại cầu Hiền Lương không chỉ một mình mà đi cùng những người thân yêu. Chúng tôi đã có khoảng thời gian thật ý nghĩa để cùng nhắc lại kỷ niệm của bố, của mẹ, và của cái tên đã nối gia đình tôi qua bao biến cố. Đứng đó, tôi thấy mình bé nhỏ nhưng thật tự hào - vì tên mình là Hiền Lương, tên một cây cầu đã từng oằn mình gánh chịu chia lìa, để rồi hiền hòa nối liền đôi bờ đất nước.

GÁNH HÀNG RONG TRÊN XE MEC CỦA CHÀNG TRAI 9X

Ở Cam Lâm – nơi nắng vừa đủ làm thơm vỏ xoài, gió vừa đủ cuốn tung mái tóc tuổi trẻ – có một gánh hàng rong mà ai đi ngang cũng phải ngoái nhìn, vừa vì sự đối lập oái oăm, vừa vì sự duyên dáng đến bất ngờ: một quầy bánh tráng trộn mở từ… cốp sau chiếc Mercedes E200L bóng loáng, không vết xước.

Định vị dễ tìm là gánh hàng rong đặc biệt này bày kế bên quán Trà Xoài Coffee ngay đầu thị trấn Cam Đức cũ. Chủ quầy là Nguyễn Đức Trọng – một chàng trai sinh năm 1995, ban ngày đi làm nhân viên vật lý trị liệu, ban chiều… chữa lành chiếc bao tử tuổi teen bằng bánh tráng trộn thần thánh. Người ta bảo, đi làm bằng tay, về bán hàng bằng tim – chính là Trọng. 

Không áo blouse, không tạp dề, chỉ có chiếc áo thun giản dị, mái tóc cắt cua gọn gàng và đôi tay thoăn thoắt như biểu diễn. Dưới rặng xoài cổ thụ, chễm chệ bên quốc lộ 1 đoạn qua thị trấn Cam Đức (huyện Cam Lâm cũ) nay là xã Cam Lâm, gánh hàng rong hiện lên như một căn lều du mục nhỏ xinh. Cốp xe mở ra, ánh đèn led lung linh như tiệm bar mini, hai chiếc ghế gấp màu xanh dựng bên hông, ngồi ăn mà cứ tưởng đang picnic đâu đó ở Đà Lạt. Mà không, đây là “Mẹc-street-food” – một khái niệm hoàn toàn mới, nghe sang chảnh nhưng lại rất… Cam Lâm. 

 Từ 17 giờ đến khoảng 20 giờ, gánh hàng lúc nào cũng rôm rả tiếng cười, mùi khô bò cháy tỏi quyện với nước sốt tắc thơm lừng. Khách phần nhiều là các bạn trẻ – những người mê ẩm thực đường phố nhưng cũng không ngại check-in với Mẹc. Họ ăn, họ chụp hình, họ hỏi “Xe thiệt hả anh?” – Trọng cười “Thiệt, như cái gánh bánh tráng này”. Trọng không chỉ bán bánh tráng trộn, mà còn có cả da heo chiên giòn, mực khô cay… đóng gói cẩn thận, nhãn hiệu “Mec8386” rất có gu. Không gian thì như hội chợ cuối tuần, còn chủ quán thì thong dong như người vừa kết thúc một bản ballad. 

 Điều thú vị là, sau 20 giờ, khi gánh đã vơi, Trọng chẳng vội đi đâu. Anh ngồi lại, trò chuyện với vài người bạn, có khi là những khách quen, và cả chúng tôi những vị khách lạ vừa ghé thủ phủ của những cây xoài cổ đất Nha Trang. Nếu một chiều nào đó bạn rong ruổi qua Cam Lâm, sau khi đã trải nghiệm cánh đồng xoài, chiêm ngưỡng những cây xoài cổ, nghe những câu chuyện nguồn gốc cây xoài mà người Pháp mang sang trồng ở đất này, hãy dừng chân tại quán Trà Xoài - không gia cà phê, giới thiệu sản phẩm chế biến từ quả xoài CamLamOnline.com - rất dễ thương, thì đừng quên ghé lại gánh hàng rong ven đường. Gọi một phần bánh tráng trộn Mẹc, nhâm nhi thêm ly kem xoài hay trà xoài, cà phê xoài – ấy là bạn đã nếm được trọn vẹn vị ngọt của một thị trấn nhỏ, nơi người ta khởi nghiệp không phải bằng vốn lớn mà bằng một chiếc xe không vết xước và một tâm hồn không vết gợn. 

 Bánh tráng trộn trên xe Mẹc. Nghe tưởng đùa. Nhưng với Nguyễn Đức Trọng, đó là cách anh dọn món mưu sinh lên khay đời, mà vẫn giữ nguyên sự tử tế, sạch sẽ và cả một chút… sang.

Gặp lại bí mật của đại dương

 Trong sảnh chính của Bảo tàng Hải dương học - biểu tượng khoa học của thành phố Nha Trang (cũ), nay thuộc phường Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa có một bộ xương khổng lồ, âm thầm nằm đó suốt mấy chục năm qua, như đang kể lại chuyện xưa của biển cả.

Mẫu xương cá voi lưng gù trưng bày ở Bảo tàng Hải dương học


Bí mật của đại dương ẩn giấu giữa đồng lúa

Đó là bộ xương cá voi lưng gù - động vật có vú từng ngự trị đại dương, nay lặng lẽ nằm giữa lòng phố, trở thành điểm nhấn không thể bỏ qua đối với bất kỳ ai ghé thăm Bảo tàng Hải dương học.

Ghé Bảo tàng Hải dương học lần này với tôi khá háo hức. Bởi sau hơn 30 năm, mới lại được đối diện mẫu vật quý ấy, không chỉ bằng con mắt của một người tham quan, mà còn bằng ký ức của một thời thanh xuân. Năm 1994, khi đó là sinh viên năm thứ tư của Trường Đại học Tổng hợp, tôi đã có mặt ở thời điểm “lộ thiên” đầu tiên của bộ xương ấy giữa lòng quê hương mình - xã Hải Cường, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định.

Ngày ấy, tháng 12 se lạnh, chúng tôi đang trong kỳ thực tập điền dã để chuẩn bị làm luận văn tốt nghiệp. Khoảng 5 giờ chiều, cả làng xôn xao vì tin công nhân thi công một công trình thủy lợi phát hiện được đoạn xương khổng lồ nằm sâu dưới lớp phù sa, giữa cánh đồng lúa mênh mông, cách bờ biển gần 4km đường chim bay. Mọi người khá sửng sốt và hoang mang trước vật thể khổng lồ dưới lớp đất đen.

Tin lan nhanh, dân tình kéo đến... Họ xôn xao, chỉ trỏ, bàn tán, nhưng cũng đầy kính cẩn. Đêm ấy, ánh đèn dầu, đèn pin chập chờn trên công trường khai quật. Sau vài ngày, bộ xương đồ sộ dần hiện ra - dài gần 18 mét, nặng tới 10 tấn. Viện Hải dương học nhanh chóng cử chuyên gia về xác định chủng loại, và rồi, một phát hiện quan trọng: đây chính là bộ xương của một cá voi lưng gù, có tuổi đời ước tính trên 200 năm.

Mẫu vật có khoảng 70% cấu trúc xương còn nguyên vẹn. Ban đầu, hiện vật được đưa về trưng bày tại đình làng theo tín ngưỡng thờ cúng cá voi linh thiêng, người dân đến xem như đi lễ hội. PGS.TS khoa học Nguyễn Tác An, nguyên Viện trưởng Viện Hải dương học, người đến tận nơi để nghiên cứu về bộ xương cá voi này chia sẻ, trong khi các bộ xương cá voi trên thế giới thời điểm này chủ yếu từ khai thác, việc người dân phát hiện bộ xương chôn vùi dưới đất có kích thước lớn như vậy là điều chưa từng có. Sau đó, nhận thấy giá trị đặc biệt của mẫu vật này đối với nghiên cứu khoa học và giáo dục cộng đồng, các nhà khoa học tìm cách đưa bộ xương về Viện Hải dương học Nha Trang để phục chế và bảo quản lâu dài.

Tiêu bản cá voi lưng gù nguyên vẹn tại Việt Nam

Giờ đây, bước vào sảnh chính của Viện Hải dương học, du khách không khỏi sững sờ trước khung xương vĩ đại ấy - như một pho tượng cổ của biển.

Dẫn chúng tôi đi tham quan các mẫu vật trưng bày là Trưởng khoa Du lịch Đại học Thái Bình Dương, ThS.NCS Võ Trần Hải Linh. Anh đang là nghiên cứu sinh chuyên ngành lặn biển tại Malaysia. Anh Linh là con trai cựu Viện trưởng Viện Hải dương học - PGS, TS. Võ Sĩ Tuấn. Anh có cả tuổi thơ gắn với địa chỉ khoa học đặc biệt này; hiện anh cũng được mệnh danh là người trẻ hiểu rõ nhất mọi ngóc ngách của đáy biển Khánh Hòa. Anh Linh chia sẻ, công cuộc phục hồi không dễ dàng, những phần xương vỡ nát, thiếu được thay thế bằng thạch cao, lắp dựng với khung inox chắc chắn. Qua bàn tay tỉ mỉ của kỹ sư, họa sĩ và nhà khoa học, bộ xương cá voi được dựng lên trọn vẹn trong không gian rộng 200 mét vuông, trở thành tiêu bản đầu tiên ở Việt Nam được trưng bày nguyên hình, nguyên dạng, mang giá trị lịch sử - khoa học - mỹ thuật đặc biệt.

 Ngoài bộ xương cá voi lưng gù, Bảo tàng Hải dương học còn có cả thủy cung, những mẫu sinh vật biển trong lọ thủy tinh, tài liệu quý về Hoàng Sa - Trường Sa, và vô vàn sinh vật kỳ lạ khác. Nơi đây cũng là một trong những cơ sở lớn nhất thế giới về mẫu vật thật với hơn 24.000 mẫu sinh vật biển quý giá thuộc 5.000 loài được thu thập khắp các vùng biển Việt Nam và khu vực phụ cận. Trong đó bộ xương cá voi 200 tuổi vẫn là điểm nhấn nổi bật nhất - một chứng cứ có giá trị lớn về khảo cổ học chứng minh “biển tiến - biển lùi” và sự tiến hóa của dân tộc dựa vào vùng bờ.

 

Th.S Võ Trần Hải Linh (bìa phải). Ảnh: Vũ Lương.